CHƯƠNG VIII
Ban ngày, Tuấn đi làm, tối về ăn cơm chung với ông bà Ích-miên và bé Xuy-dan. Cơm nước xong, có lúc Tuấn ngồi nói chuyện về Việt Nam cho ông bà nghe, có lúc Tuấn dạy bé Xuy-dan học tiếng Việt. Cái tên “Tuấn” khó đọc, nên Tuấn chỉ dạy cho bé gọi Tuấn là “Anh Hai”. Vậy mà có lần Xuy-dan không nhớ phải đọc chữ nào trước, chữ nào sau, nên chiều đến, khi thấy Tuấn đi làm về, nó chạy ra reo lên :
- Hai anh ơi ! Hai anh ơi !
Tuấn hiểu ra, ôm bụng cười ngặt nghẽo.
Tuấn được ông bà Ích-miên thương yêu như con, thì bọn gia nhân phân bì, ghen ghét. Chúng nó xầm xì với nhau :
- Cái thằng ngoại quốc đó, nhờ có công cứu cô Xuy-dan mà được ông bà cưng dữ !
Trong số các gia nhân, có hai đứa cay cú với Tuấn ra mặt. Tuấn hiểu người ta ghen ghét mình, mà không biết xử trí cách nào. Đã có lần, Tuấn định xin ông bà Ích-miên cho sang ăn ở bên Trung Tâm , nhưng cậu lại sợ phật ý ông bà. Vả lại, cậu thấy chỉ còn vài tháng nữa là cậu đã rời khỏi Ấn Độ rồi.
*
Phân bì với Tuấn, hai gia nhân kia đâm ra thù hận ông bà Ích-miên. Nhân một đêm mưa to, gió lớn, sấm sét ầm ầm, hai tên này đục một mảng tường dày, chui vào kho cất đồ châu bảo của ông bà, lấy trộm chiếc hộp đựng đầy hột xoàn và hai vòng ngọc lưu ly, rồi đem nhau trốn biệt tích.
Rạng ngày, ông bà nghe báo động, vội mở cửa sắt vào xem. Thấy mất chiếc hộp quý giá nhất, ông bà đau xót vô cùng. Nhất là bà Ích-miên, bà khóc nức nở, vì mất chiếc hộp là mất gần hết cả cơ nghiệp của gia đình ! Hôm ấy, Tuấn không đi làm, ở nhà giúp sửa chữa lại chỗ bị đục phá.
Từ đó, trong nhà ông Ích-miên buồn bã không khác gì nhà có tang chế. Tuấn cũng buồn, cậu hiểu rõ nguyên do việc ông bà Ích-miên mất của, một phần tại ông bà đã quá ưu đãi cậu.
Ông bà Ích-miên đã sai nhiều người đi dò xét khắp nơi, đồng thời cũng thông tư cho các hiệu kim hoàn trong đất Ấn, đừng dại mua những thứ ông vừa mất trộm, kẻo bị liên lụy. Nhưng vụ trộm xảy ra đã hơn 10 ngày rồi, mà việc tìm kiếm hai tên gian hùng vẫn chưa có kết quả gì.
Một sáng chủ nhật, Tuấn chán nản, không biết làm gì cho hết ngày nghỉ. Tự nhiên, cậu nảy ra ý định chèo xuồng đi chơi thật xa, xem con sông tới đâu. Cậu thay áo, đem theo thuốc trị rắn. Đi qua hàng cơm, cậu mua một ít thức ăn trưa, đoạn xuống bờ sông.
Nước sông trong vắt, hai bên bờ lau sậy mọc xanh rì. Tuấn thấy vui vui, bơi xuồng ngược lên mãi. Mặt trời đã đứng bóng, mà cậu vẫn chưa ngừng tay chèo, vì cậu thấy hai bên bờ không có gì để vào xem. Chèo gắng thêm một quãng xa, Tuấn thấy con sông chẻ ra làm hai lạch. Cậu cho xuồng rẽ vào lạch phía trái. Được một khúc, lạch bắt đầu cạn dần, Tuấn định quày trở lui, nhưng bỗng cậu để ý : giữa lạch nước trong veo, có một đường lõm dài, như dấu một chiếc xuồng bị đẩy vì mắc cạn. Cậu lội xuống lạch đi vào bờ, nhìn về phía trên xa. Quả thật, có một chiếc xuồng người nào đã kéo lên để nằm nghiêng cạnh bờ lạch. Tuấn buột miệng kêu lên :
- Lạ quá ! Chiếc xuồng của ai bỏ đây nhỉ ?
Cậu lấy thuốc rắn xoa khắp mặt mũi, chân tay, vì cậu ngửi thấy mùi tanh tanh rắn rết. Đoạn cậu bước lần tới. Xem xét chiếc xuồng và cây chèo, cậu lẩm bẩm :
- Đúng là chiếc xuồng của Trung Tâm bị mất !
Bỗng cậu giật mình vì tiếng chí choé bầy rắn cắn nhau. Cậu nhìn về phía trái, kinh ngạc :
- Trời ! Hai đống rắn ! Hình như chúng đang tranh nhau ăn cái gì.
Tuấn cúi xuống bốc một nắm đất, ném mạnh vào đống rắn. Nghe động, bầy rắn cất cao đầu, chạy tán loạn. Tuấn lần tới, thì ra bầy rắn đang tranh nhau rỉa thịt hai cái xác người. Chúng nó đã ăn gần hết thịt, còn trơ lại bộ xương và cái đầu lâu trắng hếu !
Hai cái xác nằm cách nhau vài bước. Bên cạnh hai xác chết, có hai con dao găm. Và cách đó một quãng ngắn, Tuấn thấy một cái hộp đóng kín. Tuấn cúi xuống lượm cái hộp. Cậu nhấc lên thấy cái hộp nhỏ mà khá nặng. Cậu ngồi xuống, mở nắp hộp ra, cậu reo lên :
- Trời ơi ! Cái hộp châu ngọc của ông bà Ích-miên !
Tuấn sung sướng vì bất ưng cậu tìm lại được chiếc hộp quý, cậu hò hét, nhảy múa tưng bừng ! Cậu đoán hai xác chết này chính là hai tên gia nhân lưu manh đã phá tường lấy trộm chiếc hộp ngọc. Nhưng cậu không hiểu vì sao cả hai đều chết ? Bị rắn độc cắn chăng ? Không có lẽ, vì bọn này làm việc cho ông bà Ích-miên, chắc đứa nào cũng có sẵn thuốc trị chứ ? Sao cạnh đứa nào cũng có một con dao găm ? Chúng nó thanh toán nhau chăng ? Nghĩ mãi không tìm được nguyên do, Tuấn bực mình :
- Thây kệ ! Việc của mình là không biết có nên đem cái hộp về ngay cho ông bà, hay là để lại đây, chạy về mời ông bà lên ?
Tuấn phân vân hết sức, vì nếu đem về, sợ ông bà nghi là chính Tuấn đã lấy cắp, nhưng không đem thoát đi đâu được, buộc lòng phải đem trả lui. Nếu để lại, lỡ ra có ai tình cờ đến đây thì mất toi còn gì ? Cuối cùng, Tuấn nghĩ ra một giải pháp hay nhất là đem đào lỗ chôn giấu chiếc hộp đi, rồi chạy về kêu ông bà lên xem tự sự.
Nghĩ thế, Tuấn thi hành liền, đoạn vội vàng chèo xuồng trở về. Vui mừng vì tìm được của lại cho ông bà Ích-miên, Tuấn chèo xuồng đi như bay. Ba giờ sau, cậu đã phóng về tới nhà. Cậu hớt hãi nói nhỏ cho ông bà hay tự sự.
Ông bà Ích-miên sung sướng đến chảy nước mắt, ôm choàng lấy Tuấn, cám ơn rối rít. Đoạn ông thay áo, xỏ giày, ra đi với Tuấn. Bà cũng đòi đi theo. Ông ôn tồn can bà :
- Mình đang ốm, đi làm gì ? Vả lại thuyền độc mộc, đâu có thể chở được nhiều người ! Mình ở nhà, nhớ tuyệt đối giữ kín tin này, kẻo sinh lôi thôi về sau !
*
Xem xét địa thế và hai xác chết một lúc, ông Ích-miên bảo Tuấn :
- Đây là giáp giới địa hạt Marát với vùng lân cận. Tụi nó định đi ngã này, trốn sang vùng khác, vì đây là rừng cấm không ai lai vãng. Nhưng vì hai đứa cùng tham lam : thằng nọ muốn giết thằng kia, để độc hưởng cái hộp ngọc. Ai dè, một thằng chết, một thằng bị thương nặng, không lết đi được, rồi cũng bị rắn cắn chết. Cứ xem hai thế nằm của hai xác chết, cũng đoán được phần nào !
Nhìn hai bộ xương trắng hếu, ông Ích-miên thở dài :
- Thế là hai đứa cùng chết ! Quả thật là “Thiên bất dung gian” !
Tuấn đào chiếc hộp lên đưa lại cho ông. Ông cầm lấy mở ra xem xét một lúc rồi bảo Tuấn :
- Còn y nguyên, cháu ạ ! Thật ông bà mang ơn cháu rất nhiều. Nếu không có cháu mạo hiểm kiếm tìm, chắc không bao giờ ông bà lại được nhìn thấy cái hộp quý báu này !
Hai người về đến nhà thì trời đã khuya. Bà Ích-miên thấy của cải vẫn nguyên, bà mừng hết sức. Bà bàn với chồng :
- Của mình kể như mất rồi, đây chính là của cháu Tuấn cho mình lại. Tôi nghĩ chúng ta phải chia cho cháu một nửa cái hộp này !
Tuấn nghe vậy, kêu lên :
- Ông bà đừng làm thế, cháu không nhận đâu ! Cháu nghĩ rằng : Đây là Trời thử thách ông bà một thời gian, rồi Trời lại dun dủi cho cháu tìm được lại để an ủi ông bà, chứ không phải hoàn toàn do công cháu cả đâu !
Ông Ích-miên ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo Tuấn :
- Thôi, cháu đã nói vậy, thì ông bà không ép. Nhưng ông bà sẽ liệu cách để đền ơn cháu. Dầu sao, cháu cũng đã đem niềm an ủi lại cho gia đình ông bà !
Điều Tuấn mong ước là tìm được chiếc hộp lại cho ông bà Ích-miên khỏi đau khổ. Nay “Châu đã về Hợp phố”, Tuấn lấy làm mãn nguyện hết lòng, không mong ước gì hơn nữa !
Nhân tìm được chiếc hộp quý mà Tuấn lại khám phá thêm được một vùng mà các bạn cậu chưa ai đặt chân tới. Cậu bắt được nhiều loại rắn lạ mà Trung Tâm chưa hề thấy.
Một buổi chiều đi làm về, Tuấn nhận được thư ông Thái Phong. Tuấn vội bóc ra đọc ngấu nghiến :
Thăm con mến,
Khi con được thư này thì bác đang lênh đênh trên đường sang Bombay . Bác đi trước ngày dự định, vì có sẵn hàng, với lại má con và bác gái nhớ con dữ lắm, nhất là con bé Hiền, hễ nó lên thăm bác, là nó níu áo bác, bắt đền “anh Hai” cho nó, khiến bác cầm lòng không đậu, phải liệu đi sớm đem con về !
Ngày nào tàu Nam Hải sẽ cập bến Bombay, bác không dự liệu trước được. Bởi thế, con cứ ở lại Marát đợi bác. Đến Bombay , thu xếp xong công việc, bác sẽ xuống Marát thăm ông bà Ích-miên, để cám ơn ông bà đã cho con tá túc mấy tháng nay. Bác sẽ đánh dây thép cho con ra đón bác ở nhà ga.
Bác mong sẽ chóng gặp con vui mạnh.
Bác.
Thư vỏn vẹn có mấy hàng, mà Tuấn đọc đi đọc lại không chán. Thấy mọi người tỏ lòng thương, Tuấn sung sướng vô cùng. Tuấn báo tin cho ông bà Ích-miên biết. Ông Ích-miên suy nghĩ một lúc rồi bảo Tuấn :
- Đối với cha nuôi cháu, thật ra cháu không nên giấu chuyện gì mới phải. Nhưng ông xét kỹ thấy rằng, việc cháu tìm lại được hộp châu ngọc cho ông bà, cháu không nên nói ra cho một người nào khác biết nữa, sợ sinh lôi thôi cho ông bà về sau. Mong cháu hiểu !
Tuấn vội vàng thưa :
- Vâng, cháu hiểu ! Xin ông bà cứ yên tâm về chuyện đó, cháu hứa sẽ giữ thật kín !
*
Từ hôm được thư bác Thái Phong, Tuấn còn đi làm thêm vài tuần nữa, mới xin nghỉ việc. Trung Tâm tính sổ và trả cho Tuấn một số tiền khá lớn và biếu Tuấn một lô thuốc trị rắn, kể cả thuốc xoa dành riêng cho nhân viên. Thấy ông Giám đốc Trung Tâm xử đãi với mình quá tử tế, Tuấn cảm kích hết sức. Tuấn cũng chỉ cho các bạn, những nơi cậu đã thám hiểm được, để họ kiếm được nhiều tiền thưởng.
Tuấn được dây thép vào buổi sáng, thì buổi chiều ông Thái Phong tới. Ông Ích-miên thân hành lái xe đưa Tuấn lên đón ông Thái Phong ở sân ga. Hai ông vui vẻ siết chặt tay nhau, như đôi bạn chí thân. Ông Ích-miên nói với ông Thái Phong :
- Ông có một đứa con nuôi can đảm và thật thà hiếm có. Cháu đã làm vinh dự cho ông và cho nước Việt Nam !
Nghe lời khen tặng đó, ông Thái Phong hiểu là trong thời gian vừa qua, Tuấn đã biết cách ăn ở đẹp lòng mọi người, nên ông rất mừng.
Hai hôm ở lại Marát, ông Ích-miên quý trọng ông Thái Phong như một thượng khách. Ông thân hành dẫn ông Thái Phong đi thăm các cơ sở trong vùng. Ông cũng tặng ông Thái Phong mấy món đồ kỷ niệm quý giá. Ông cũng cho Tuấn một tượng đồng đen để về biếu cho ông Tư Bá. Tượng này rất quý vì hai con mắt tượng có gắn hai hột dạ châu. Ban đêm, hai con mắt tượng sáng như hai ngọn đèn điện nhỏ.
Sáng hôm ông Thái Phong và Tuấn trở về Bombay , ông bà Ích-miên và cô bé Xuy-dan cùng đi tiễn. Đến Bombay , ông Ích-miên đem số tiền Trung Tâm trả cho Tuấn, gởi Ngân hàng xin chuyển về Việt Nam . Ông cũng bỏ thêm vào đó một số tiền tương đương, nhưng giấu không cho Tuấn hay biết.
Sau khi khoản đãi hai cha con ông Thái Phong một bữa cơm trưa thật sang trọng, ông bà Ích-miên tiễn hai cha con ông xuống bến tàu. Trước khi chia tay, bà Ích-miên nước mắt ràn rụa, bà hôn Tuấn và trao cho Tuấn một giỏ trái cây và dặn nhỏ :
- Bà không biết lấy gì để trả ơn cháu cho cân xứng. Bà biếu cháu một mớ trái cây để cháu ăn dọc đường. Nhưng cháu để ý : dưới đáy giỏ có một cái bánh, trong ruột bánh bà đã bỏ một ít đồ cho cháu. Cháu nhớ cất kỹ, về đến Việt Nam rồi hãy xem. Bà cầu chúc cháu chóng đạt được những điều cháu mơ ước !
Bấy giờ Tuấn mới hiểu ra, vì sao bà cứ kè kè xách theo giỏ trái cây. Cậu biết không thể từ chối được, đành cầm lấy, miệng mếu máo :
- Cháu cám ơn ông bà vô cùng. Ông bà đã thương cháu không khác gì con ruột, đời đời cháu sẽ không bao giờ quên ông bà !
Xuy-dan cũng ôm lấy Tuấn khóc nức nở. Cô bé tháo hai vòng ngọc huyền đeo nơi tay, bỏ vào túi áo Tuấn và dặn :
- Anh Hai ơi ! Em gởi biếu chị Hiền 2 chiếc vòng này. Khi nào anh Hai theo tàu sang chuyến khác, anh nhớ xuống thăm em, nghe anh !
Tuấn ứa nước mắt, hôn Xuy-dan và an ủi :
- Em yên trí, khi anh sang chuyến khác, thế nào anh cũng xuống Marát thăm ông bà và em. Em nhớ lo học cho giỏi, mai sau em lớn lên, anh sẽ mời ông bà và em sang thăm anh.
Tuấn đứng lên, bắt tay từ giã ông Ích-miên. Trong cái siết tay thật chặt và cái nhìn âu yếm, bỗng nhiên hai người cùng cảm thấy rào rạt mối tình cha con bịn rịn lúc chia tay ! Hai người cùng ôm choàng lấy nhau, nghẹn ngào không nói nên lời…
Ông Thái Phong và Tuấn đứng nhìn theo xe ông bà Ích-miên cho tới khi xe khuất vào đám bụi mù.
Tối hôm ấy, Tuấn thuật chuyện bắt rắn cho các bạn thủy thủ nghe. Ai nấy theo dõi say mê. Có người yếu vía sợ quá rú lên, khi nghe Tuấn tả hình dạng con rắn độc ! Cuối cùng, Tuấn hẹn trước khi rời Ấn Độ, sẽ lấy tiền bắt rắn, đãi anh em một bữa càry gà no nê ! Mọi người vỗ tay hoan hô ầm ĩ !
____________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG IX
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét