7
Hầu như Mai không để ý đến sự việc vừa xảy ra, trong khi Tuấn sợ toát mồ hôi, lấm lét ngó về phía cửa. Ông Thanh Quí nói chuyện huyên thuyên một lát rồi làm như vô tình hỏi xem tấm bản đồ “lô 26”.
- Chắc đó là tấm bản đồ do các cháu vẽ phải không?
Mai gật đầu. Nhưng cô bé kịp thời nhận ra sự hớ hênh của mình. Màu giấy vàng khè và nét mực đã nhạt màu sẽ tố cáo sự giả dối.
- Dạ không đúng hẳn như vậy, chúng cháu tìm thấy ở trong mớ giấy lộn trên gác xép.
- Thế thì đúng rồi, tấm bản đồ này chẳng có giá trị bao nhiêu. Tuy thế bác cũng muốn coi chơi. Các cháu có thể cho bác mượn đến mai được không? Bác không bận việc nhiều, thành ra thích sưu tầm những gì dính dáng đến vùng này một khi bác biết. Bác cho các cháu tấm bản đồ đẹp này, các cháu cho bác mượn tấm bản đồ của các cháu nhé?
Mai bối rối đưa mắt nhìn Tuấn. Không thấy anh phản ứng gì, Mai đành nói:
- Dạ tùy ý bác… Chúng cháu cho bác mượn thôi. Mai chúng cháu tới xin lại.
Ông Thanh quí có vẻ hớn hở khi cầm trong tay tấm bản đồ cũ. Ông đút ngay tấm bản đồ vào ngăn kéo rồi đóng lại như sợ hai đứa trẻ đổi ý.
Mai, Tuấn xin ông Thanh Quí ra về, không quên cám ơn ông. Ông Thanh Quí gởi lời thăm cô chú Bảy mà ông gọi là những người láng giềng tốt.
Trên đường về, Tuấn kể cho Mai nghe sự lạ nó thấy trong nhà ông Thanh Quí.
- Anh có chắc đúng là ông già đêm nào không?
- Sao không chắc? Mái tóc bạc dài ma quái, anh không thể nào quên được.
- Đáng lẽ anh phải hỏi ông Thanh Quí ngay. Ông ấy không giấu tụi mình đâu. Mà kỳ quá nhỉ, tại sao họ lại quen nhau? Một người tốt như ông Thanh quí sao lại kết thân với lão già có những hành động xấu như đến rình rập ở nhà mình?...
Tuấn không muốn bị ám ảnh vì sự sợ hãi, hướng sang câu chuyện khác:
- Dầu sao tụi mình cũng có một tấm bản đồ đẹp…
Mai cướp lời:
- Đẹp, nhưng mà không “xài” được. Lỡ mang ra người lớn hỏi chúng mình tìm đâu ra thì biết trả lời làm sao?
- Tấm bản đồ này vẽ y hệt tấm bản đồ của tụi mình, chỉ thiếu có một chỗ vẽ hình chữ nhật. Nhưng anh biết nó ở chỗ nào rồi, về phòng anh sẽ vẽ lại.
Một cơn gió làm tung rối mái tóc của Mai. Cô bé đưa tay lên vuốt tóc và chợt kêu lên:
- Thôi chết rồi, Mai để quên cái mũ đâu mất?
Tuấn lo dùm em, vì đó là món quà của Xuân tặng hôm Mai mới đến. Không thấy Mai đội, thế nào Xuân cũng hỏi.
- Hay Mai bỏ quên ở biệt thự Tùng Lâm?
- Không biết nữa… Mai chẳng nhớ gì hết.
Hai anh em gắng quên những việc xảy ra, cố làm ra vẻ tự nhiên khi về đến trại. Nhưng cả hai vẫn cảm thấy chút hối hận vì đã không vâng lời, và tự nhủ sẽ tìm cách chuộc lỗi.
Chiều đến, hai anh Minh, Danh vẫn chưa về, chắc còn chờ lấy hàng. Mai rủ Tuấn xin cô ra vườn tưới rau. Cô Bảy hơi lạ vì đề nghị của hai cháu. Nhưng cô ưng thuận vì cho đó là dấu hiệu tốt, chứng tỏ những đứa trẻ ngoan.
Vì không quen tưới, nên quần áo hai em ướt sũng nước. Tưới xong, hai anh em lên phòng thay quần áo. Đang tính xuống nhà dưới thì cửa phòng vụt mở…
Mai đỏ mặt như người bị bắt quả tang đang ăn vụng, còn Tuấn không giấu được vẻ bối rối. Minh hiện ra ở khung cửa, tay cầm chiếc mũ của Mai. Minh nhíu mày ra vẻ giận, quay về phía Mai hỏi:
- Cái mũ này của Mai phải không? Anh tìm thấy ở trong tòa hành chánh. Chứng cớ rành rành là cô cậu đã ra tỉnh. Anh biết hết rồi.
Mai, Tuấn ngượng ngịu, không biết nói sao. Minh nghiêm nghị nói tiếp:
- Dầu sao, tôi báo cho cô cậu biết lần này tôi tha, nhưng lần sau, một lần nữa thôi, tôi sẽ viết thư cho má lên đón về Saigon ngay lập tức. Một điều nữa là ông Thanh Quí gì đó không tốt lắm đâu. Chú Bảy không ưa, nên không muốn ai giao du thân mật với ông ấy. Hai người hình như giận nhau vì ông Thanh Quí cứ đòi mua cho bằng được bãi cỏ mà chú Bảy nuôi bò. Liệu coi chừng đó!
Mai, Tuấn đứng im như tượng gỗ. Mai chợt hỏi:
- Tại sao anh với anh Danh giấu tụi em chuyện này?
- Chuyện gì?
- Thì chuyện mấy con bò bị thương!
Minh cau mày:
- À, có phải chính lão Thanh Quí đã nói không?... Lão ấy chõ mũi vào chuyện này làm gì kìa? Được rồi, từ nay cấm không được lai vãng đến nhà lão ấy nghe không! Còn chuyện mấy con bò các em khỏi bận tâm, đã có chú Bảy lo.
Minh đi rồi, Mai, Tuấn còn đứng im một lúc. Mai thì thầm:
- May quá, mình chưa nói chuyện bản đồ. Nếu không anh Minh lại cho một bài giảng dài vì đã cho ông Thanh quí mượn.
- Nhưng ông ấy hứa ngày mai sẽ trả. Với lại như ông ấy nói, đâu có gì quan trọng, tấm bản đồ cũng chẳng có gì bí mật hết!
- Xí í í… không quan trọng mà ông ấy lại năn nỉ đòi mượn. Tại tấm bản đồ của mình có đánh dấu khu bãi cỏ, khu gần sát biệt thự của ông ấy.
Mai chợt hiểu:
- Phải rồi, biệt thự của ông ấy đâu có đất rộng. Ông muốn mua để nuôi bò như chú Bảy đó.
Tuấn không nói gì. Mai đề nghị:
- Này Tuấn, ngày mai tụi mình lấy bản đồ lại rồi đem cho chú Bảy coi, chắc chú thích lắm.
*
Đêm hôm đó cũng như mấy đêm hôm trước, Tuấn và Mai đứng rình bên cửa sổ hy vọng bắt gặp lão già tóc bạc trở lại. Nhưng đêm nay, mây bay nhiều quá che khuất cả bóng trăng, làm hai anh em chẳng thấy gì được. Hai đứa bàn nhau đi ngủ.
Trong khi đó, Minh và Danh lẻn ra khỏi trại, lần mò đi theo đường mòn lên bãi cỏ. Hai người cố gắng mở to đôi mắt quan sát tìm ra nguyên do vì sao mấy con bò bị thương.
Đang đi, Minh bỗng dừng lại bảo bạn:
- Suỵt! Có người đang đi trên kia.
Trong bóng tối, Danh cố gắng nhìn kỹ xem trên kia là chỗ nào. Minh nhắc lại:
- Coi kìa!
Tim Danh đập hồi hộp. Trên đầu dốc, ngay phía trước mặt, một bóng đen lù lù hiện ra. Bóng đen di động chứng tỏ là một người nhưng một người to lớn như người khổng lồ. Bóng đen di chuyển chậm chạp như do dự chưa biết đi về hướng nào. Minh lẩm bẩm:
- Dám “nó” thấy mình rồi.
- “Nó” quay lưng lại mình, làm sao mà thấy được. Chắc “nó” tính vào chọc đàn bò nữa đây. Mình thấy còn phát ớn huống chi đàn bò.
Bóng đen lặng lẽ xa dần. Danh hồi hộp hỏi bạn:
- Làm sao bây giờ? Không lẽ đứng đây mãi sao?
- Thì cứ theo sát xem “nó” giở trò gì!
Hai người bỏ chỗ núp, thận trọng theo dõi bóng đen bí mật càng lúc càng nhỏ dần.
- Gần lên đến bãi cỏ rồi đó.
- Đúng rồi, phải thận trọng hơn nghe cậu. Nhớ quan sát cho kỹ.
Bóng đen vừa khuất sau rặng cây. Trăng đã lên cao, những đám mây trắng đục đã biến mất từ hồi nào, nhưng Minh không sao nhận được nữa vì bên sườn núi gần bãi cỏ nhấp nhô những tảng đá đen không khác gì những bóng người. Minh càu nhàu:
- Phải mình đi lẹ may ra còn kịp. Bây giờ biết hướng nào mà tìm.
- Đừng phàn nàn vô ích. Chắc “nó” chưa kịp mở cửa để vào phá đàn bò đâu. Như vậy “nó” còn quanh quẩn đâu đây. Bây giờ mình chia nhau mỗi người đi một phía dọc theo hàng rào may ra mới gặp.
- Hy vọng thế… Nào chia tay, nhớ cẩn thận nghe.
Đi được vài chục thước, Minh nghe rõ mồn một tiếng lập cập đâu đây như tiếng hai hàm răng đụng vào nhau. Anh ngồi xuống thủ thế rồi phóng tầm mắt nhìn quanh và bật cười khi nhận ra tiếng động phát ra từ con bò đang nhai cỏ cách đây không xa. Minh lại tiếp tục đưa mắt chăm chú nhìn về phía trước. Mấy phút dừng lại vừa rồi có thể là dịp tốt cho “nó” chuồn xa. Có bóng người từ phía trước đi lại. Minh vội lùi lại núp sau một gốc cây. Nhưng tiếng Danh đã vang lên:
- Minh đấy hả? Thấy gì không?
- Thấy con bò trắng răng! Còn cậu?
- Cũng vậy. Không lẽ “nó” bốc hơi bay mất hay có phép tàng hình độn thổ sao? Hay là ma chưa biết chừng. Chốn rừng xanh núi đỏ này không thiếu gì ma quỉ.
- Chưa gì cậu đã tin nhảm. Bây giờ mình thử đảo qua phía biệt thự Tùng Lâm xem sao?
Hai người lại vội vã đi, lần này không e dè gì nữa. Nhưng vô ích. Bóng người bí mật đã biến mất vào bóng đêm. Minh, Danh đành đến gần chỗ nhốt bò chia nhau thay phiên gác, hy vọng gặp lại bóng người bí mật. Danh ngủ trước, anh chui mình trong chiếc bao vải dày đã mang theo bên mình, rồi thiếp đi…
Một giờ sau, Minh đánh thức Danh dậy thay phiên gác. Trăng đã lên cao, trong sáng. Cảnh rừng núi êm đềm. Côn trùng nỉ non hòa tấu một khúc nhạc dịu. Khí trời thanh mát ru anh vào giấc ngủ.
Lúc tỉnh dậy, Minh có cảm tưởng ánh trăng chói quá. Anh vươn vai ngáp dài và nhận ra trời đã hừng sáng. Trí óc anh cũng tỉnh dần. Anh nghĩ:
“Thế là mình đã ngủ quên cho tới sáng. Tại sao Danh không gọi mình dậy thay phiên gác kìa?” Rồi trí Minh quay nhanh ý tưởng này: “Có thể Danh quên, hay là… Danh không thể gọi được”. Lý luận của Minh không dừng lại ở đó, ý tưởng phiêu lưu luôn ám ảnh anh: “Có thể Danh gặp chuyện gì cấp bách phải đuổi theo ngay”.
Nghĩ đến đó, Minh tỉnh hẳn, ngồi bật dậy, chui ra khỏi bao. Đưa mắt nhìn quanh, lòng Minh chợt quặn đau như có muôn ngàn mũi kim đâm vào. Anh hốt hoảng kêu lên:
- Trời ơi! Danh, Danh làm sao thế này?
Nhưng Danh không trả lời. Cách đấy vài bước, Danh nằm im bất động. Anh nằm sấp trên cỏ, đầu gục trên cánh tay, toàn thân còn gọn trong bao vải… Hình như Danh bị đánh gục bất tỉnh. Minh hồi hộp chạy lại gần xem xét. Anh cúi xuống và muốn bật cười thật to. Danh đang còn ngủ! Minh lay bạn:
- Thôi dậy đi ông bạn vàng. Ông cho tôi ngủ một đêm ngoài trời chẳng được ích gì!
Danh tỉnh hẳn. Nhận ra mình ở đâu, anh mỉm cười giảng giải:
- Cậu biết tớ thức khuya không được, lại giữa cảnh trăng thanh gió mát như đêm qua làm sao không ngủ cho được?
Minh chỉ về phía những tảng đá lớn gần biệt thự Tùng Lâm:
- Hôm qua tối quá, mình chưa lại chỗ đó coi, bây giờ đến xem có thấy gì lạ không? Tớ nghi góc đó lắm, hình như “nó” biến mất ở phía đó.
Minh, Danh tìm kiếm một hồi không thấy dấu vết gì khả nghi, thành đá chặn ngang như bít mọi lối lên núi. Thêm vào đó, gai góc mọc đầy một khoảng khá rộng làm hai người không dám tiến thêm nữa, đành thất vọng quay về.
8
Sáng hôm đó, Mai và Tuấn dậy sớm hơn thường lệ, vì hôm nay có nhiều việc phải làm. Trước tiên là lên chòi của cai Bần để lấy tiền trứng, sau đó phải tìm cách đến xin lại ông Thanh Quí tấm bản đồ cũ nữa. Tuấn giở tấm bản đồ mới ra coi, rồi chỉ cho Mai:
- Đúng chỗ này có vẽ hình chữ nhật bằng mực đỏ trong bản đồ của tụi mình.
- Phải rồi, lô 26 gồm một phần bãi cỏ của chú Bảy với khoảng đất đầy gai góc gần vách đá lởm chởm.
- Khi đi về, mình ghé chỗ vách đá đó coi có gì lạ không? Bãi cỏ ngoài này chỉ có cỏ với mấy con bò, đâu có gì đặc biệt!
Bữa cơm sáng vừa xong, chị Tư đang xếp bát mang ra cửa, Minh lên tiếng hỏi:
- Chị Tư này, chuyện lão Nùng Ô có thật không đó? Chị có biết lão ấy không?
Chị Tư ngừng xếp bát, nét mặt lộ vẻ suy nghĩ:
- Tôi biết Nùng Ô cũng như mọi người trong vùng này biết lão. Lão là người không được tốt…
Danh để ý thấy Mạnh tỏ vẻ lắng tai nghe câu chuyện. Tuấn tò mò:
- Chị tin lão có bùa ngải hay phép tắc gì không?
- Phép tắc làm gì có. Lão có làm vài đạo bùa, một ít thuốc lá để chữa bệnh… Lão có cả thuốc độc nữa.
- Thật không chị Tư? Mai xen vào.
- Thì cũng như tên tôi là Tư vậy đó. Rừng núi này thiếu chi cây trái độc. Lão ở trong rừng lâu năm tất phải biết chứ.
Cô Bảy không muốn các cháu hỏi thêm, giục Minh, Danh:
- Thôi, khi khác hỏi chuyện tiếp. Các cháu liệu đi sớm rồi còn về cho mát. Mai, Tuấn nhớ lấy cái giỏ mà các cháu để lại bữa trước đó. Thế nào ông cai Bần cũng để tiền hoặc thứ gì đó. Các cháu cứ mang về đây cho cô.
Hai đứa vâng dạ rồi ra nhập bọn với các anh và xuân. Cả bọn lục tục lên đường. Minh, Danh hơi uể oải vì cuộc mạo hiểm đêm qua. Hai anh không muốn đi, nhưng sợ cô Bảy để ý. Từ trước tới giờ hễ có dịp đi đâu là hai anh đều đòi đi cho được. Ra khỏi trại chừng vài trăm thước, Xuân dừng lại đề nghị:
- Tụi mình đi chơi xa một chút được không mấy anh?
Minh gạt ngang:
- Thôi đi cô nương! Đi lẹ rồi về. Không nghe cô Bảy dặn sao?
Thấy đề nghị bị gạt bỏ, Xuân dỗi:
- Thôi thì thôi! Em muốn dẫn các anh đi lối xa hơn một chút để xem phong cảnh với căn nhà của Nùng Ô mà anh Minh không muốn thì thôi. Em khỏi mệt.
Câu nói của Xuân làm Minh tỉnh ngộ. Minh nhìn Danh ra hiệu. Hai anh nghe nói đến Nùng Ô là cảm thấy khỏe hẳn lên. Danh đấu dịu:
- Đó là ý kiến của anh Minh, còn anh thì khác. Anh hoàn toàn đồng ý với Xuân. Anh đề nghị Xuân làm người hướng đạo cho bọn anh. Bây giờ Xuân muốn dẫn anh đi đâu, anh cũng sẽ đi ngay.
Xuân không chờ phải năn nỉ thêm, hăng hái đi trước dẫn đường. Cả bọn hăng hái hơn lúc nãy, câu chuyện dòn vang cả núi rừng. Bọn trẻ lên cao, lên cao mãi. Cây cối hai bên đường mòn càng lúc càng rậm rạp. Lối đi dần dần bị cỏ mọc che khuất, có lẽ vì ít người đi qua. Xuân như thuộc hết các ngõ ngách ở trên núi. Cô bé vừa đi vừa kể những chuyện nghe được về ngọn núi này. Khi gần đến nhà Nùng Ô, Xuân ra hiệu cho cả bọn nói nhỏ lại.
Một mái tranh lụp xụp ẩn hiện sau đám lá cây xanh. Đi thêm mấy bước, cả bọn thấy toàn diện căn nhà. Thật không khác chi một căn nhà ổ chuột ở Saigon , trông nó còn tồi tệ gấp bội. Mái tranh trụt từng mảng lớn được đắp thay bằng lá khô đủ loại. Chung quanh nhà đóng bằng cây rừng đã mọt gãy từng chỗ. Một cánh cửa ọp ẹp khép hờ.
Mai khẽ nói:
- Đúng là cái ổ chuột.
Tuấn cải chính:
- Cái ổ nhện thì đúng hơn.
Tuấn chỉ cho Mai thấy từng lớp màng nhện giăng dầy đặc quanh nhà. Trong nhà không có dấu hiệu gì chứng tỏ có người. Đứng ngắm nghía một lát rồi cả bọn rẽ sang bên trái để đến chòi của cai Bần. Mai chợt nắm lấy tay Tuấn, thấy tay anh cũng lạnh toát như tay mình. Vì lúc đó cả hai thấy xuất hiện ở đầu đường bóng người đàn ông đêm nào. Hai đứa sợ hãi dừng lại đợi các anh lớn đến cùng đi. Hai em quan sát người lạ. Đó là một ông già, dò dẫm từng bước chậm chạp, một tay chống gậy, một tay cầm mấy cành củi khô.. Mai, Tuấn để ý nhất là mái tóc bạc chạy dài xuống hai vai.
- Chào ông ạ. Bọn trẻ lễ phép chào khi đi ngang ông già.
- Chào… en. Thanh âm ông già nghe lơ lớ, lạ tai.
Da mặt người đàn ông đen sạm, mặt nhỏ, mũi nhọn, đôi lông mày rậm che khuất cặp mắt gườm gườm như luôn luôn rình rập, âm mưu điều gì. Ông mặc một bộ quần áo không còn mầu sắc, rách tả tơi. Hình như người đàn ông không thèm để ý vá những chỗ rách nữa.
Đi khỏi một quãng, Mai, Tuấn vừa kịp nhận ra, qua kẽ lá, lão già đang vào nhà Nùng Ô, cặp mắt lão còn hướng về phía bọn trẻ.
Xuân chợt nói:
- Té ra đó là Nùng Ô. Em nghe nói nhiều về lão, chứ đã thấy lão bao giờ đâu. Trông dễ sợ thật!
*
Cũng như lần trước, cai Bần không có nhà. Bọn trẻ lấy cái giỏ treo trước cửa rồi ra về. Đến trại, mỗi người tản mác đi một nẻo. Mai kéo Tuấn lên lầu bàn bạc:
- Tuấn có thấy Nùng Ô đóng kịch hay không? Lão làm như không đi nổi nữa, phải chống gậy mới gượng bước được.
- Thế mà đêm nọ, lão biến nhanh như chớp.
- Nếu Mai không thấy, chắc Mai đã cho là anh mơ ngủ rồi.
- Mai có nhớ, khi ở nhà ông Thanh quí, chính Nùng Ô hé cửa, rồi thấy tụi mình, lão không dám vào.
Mai chợt nhớ là còn phải đến biệt thự Tùng Lâm đòi tấm bản đồ.
- Anh Tuấn này, hay là tụi mình đi ngay đi. Nùng Ô còn ở nhà lão, lão không thể đến nhà ông Thanh Quí trước tụi mình được.
Tuấn e dè:
- Mai có chắc không?
- Nhưng đằng nào tụi mình cũng phải đi, nếu tụi mình muốn cho chú Bảy coi tấm bản đồ. Tụi mình có thể bị la, nhưng Mai tin chắc tấm bản đồ rất quan trọng và chú Bảy sẽ hài lòng.
Tuấn không do dự nữa. Hai anh em chờ lúc mọi người trong trại không để ý, lẻn ra đi.
Hai đứa chạy một mạch tới biệt thự Tùng Lâm. Thấy ông Thanh Quí không đá động tới tấm bản đồ, Mai phải nhắc ông và ngỏ ý xin lại. Ông Thanh Quí bối rối ra mặt, ngượng nghịu nói:
- Bác quên chưa nói với hai cháu chuyện này. Thật bác không ngờ…
Ông lặng lẽ dẫn Mai Tuấn vào căn phòng hôm nọ. Vừa vào, Mai đã để ý nhìn cánh cửa ở cuối phòng.
- Các cháu nhớ là bác đã cất tấm bản đồ ở đây phải không?
- Dạ phải, trong ngăn kéo này. – Tuấn vừa trả lời vừa chỉ ngăn kéo ông Thanh Quí đã cất tấm bản đồ.
Ông Thanh Quí gượng cười:
- Vậy mà khi đưa các cháu ra về, bác quay lại tìm thì lạ thay tấm bản đồ không cánh mà bay đâu mất rồi.
Mai, Tuấn ngạc nhiên, trố mắt nhìn nhau. Mai cho là tấm bản đồ có thể lọt ra phía sau ngăn kéo, nên gặng hỏi:
- Sau đó bác có tìm kỹ không ạ?
- Bác tìm ngay, lục lọi cả các ngăn khác cũng không thấy. Bác vẫn nghĩ tấm bản đồ không có gì quan trọng, nhưng nó thuộc về các cháu, nên bác rất ân hận…
Hai anh em không biết xử trí cách nào, đứng nhìn ông Thanh Quí. Ông tiếp, giọng thành khẩn:
- Bác rất tiếc, rất buồn nữa. Hai cháu có thể dùng tấm bản đồ bác cho hôm nọ thay vào… Bác nghĩ tấm bản đồ của bác còn giá trị hơn tấm kia nhiều.
Mai, Tuấn đành từ giã ra về. Hai anh em đi bên nhau mà không nói một lời nào. Tuấn hối hận vì đã lỡ nói cho ông Thanh Quí biết tấm bản đồ trước tiên.
- Mai có tin câu chuyện của ông ấy không?
- Tin sao được? Ông ấy muốn giữ tấm bản đồ nên bịa chuyện gạt tụi mình. Chỉ có vậy. Tụi mình khờ thật. May mà chưa nói cho ai biết hết. Thôi quên đi, coi như không có là xong.
- Uổng ghê! Đâu có phải ngày nào cũng tìm được một tấm bản đồ bí mật như vậy.
Cả hai đi vòng ra phía vách đá lởm chởm, chỗ đất có gai góc mọc nhiều. Mai vừa đi vừa nhìn đàn bò bị bôi thuốc xanh nom thật tức cười. Tuấn đi lên trước. Nó chợt dừng lại, mặt tái xanh. Thế rồi như người mất hồn, Tuấn quay lại nắm tay Mai chạy như bay về lối cũ. Không để ý, Mai bị kéo đi bất thình lình suýt té. Mai không hiểu tại sao, nhưng đành phải chạy theo anh. Chạy được một quãng, Tuấn mới dừng lại. Mai thở hổn hển hỏi:
- Cái gì vậy anh?
Tuấn lắp bắp không ra tiếng:
- Nùng Ô! Anh vừa thấy lão!
Mai vụt quay lại nhìn theo hướng Tuấn chỉ, vừa kịp nhận ra mái tóc bạc phất phơ giữa mấy bụi gai. Chỉ một thoáng, lão đã biến mất. Mai dụi mắt lẩm bẩm:
- Nùng Ô chạy lẹ như vậy, thì lão có thể đến đây trong khi tụi mình còn ở nhà ông…
Mai ngừng lại suy nghĩ, rồi la lên:
- Đúng rồi, chính lão!
- Chính lão làm sao?
- Chính lão đã ăn cắp tấm bản đồ. Tuấn nhớ không, trong lúc tụi mình ở trong phòng ông Thanh Quí, lão đã rình sau cánh cửa và nghe hết mọi chuyện. Rồi thừa lúc ông Thanh Quí đi ra, lão lẻn vào lấy.
Tuấn gật đầu:
- Hay mình trở lại nói cho ông Thanh Quí biết đi!
- Trễ rồi, phải về trại ngay, không có bị lạ.
Hai đứa nhìn lại chỗ lão Nùng Ô vừa biến mất nhưng không thấy gì ngoài mấy bụi gai.
Hai anh em vội vã quay về. Tuấn khẽ nói:
- Chắc còn nhiều chuyện lạ nữa đây!
Xem tiếp CHƯƠNG 9, 10
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét