CHƯƠNG I
Coi dáng dấp bên ngoài thì Chiêm cũng không có gì đặc biệt, so với các chú bé khác.
Có thể nói rằng trông nó cũng giống như trăm ngàn các em nhỏ Việt Nam. Và chính nhờ cái chi tiết "cũng giống như" này mà Chiêm không bị người đời chú ý đến mấy. Không bị chú ý là một ưu điểm rất lợi cho cái nghề mà Chiêm khoái nhất : nghề làm trinh thám. Chiêm làm trinh thám ? Một chú bé 13 tuổi mà đã làm được cái nghề cao quí, khó khăn và nguy hiểm ấy ? Các bạn trong gia đình Tuổi Hoa chắc ngạc nhiên lắm ? Không ngạc nhiên sao được, vì chú Chiêm hạt tiêu... đã có mặt trong gia đình chúng ta... từ lâu rồi mà đâu có ai biết. Chỉ biết rằng, mỗi khi tay nào trốn học đi chơi hoặc ra đường đánh lộn, chạy lăng quăng đuổi nhau trên đường đầy xe cộ là y như lúc đi học về thế nào cũng bị ba má hoặc anh chị hạch hỏi trúng ngay boong, hết đường chối cãi. Vậy muốn khỏi lo lắng gì hết, anh em chúng ta chỉ có việc đi học thì đi tới nơi về tới chốn, không la cà đây đó, và tháng nào cũng đưa về cho ba má, anh chị chiêm ngưỡng một cái bảng danh dự... thế là yên chí. Ngược lại, nếu bướng bỉnh không nghe, lỡ vi phạm điều gì, là thế nào cũng bị mắt thần của Chiêm Tinh theo dõi... "méc" ba má thì ăn roi mây là một điều khó lòng tránh thoát.
Vậy thám tử tí hon "Chiêm Tinh" là ai, tên thật là gì ? Người kể lại chuyện này, vì đã hứa danh dự với Chiêm nên không dám tiết lộ . Chắc các bạn trong gia đình Tuổi Hoa bực mình lắm vì óc tò mò không được thỏa mãn ? Vậy để chuộc tội lập công, xin kể chuyện công tác của chàng thám tử ở rất xa mà lại rất gần chúng ta. À mà không! Xin đề nghị với các bạn là để tôi được đóng vai thám tử Chiêm kể lại chuyện của mình thì hơn... và sau đây là lời Chiêm:
Tôi làm "thám tử" đã lâu rồi. Trên hai năm chứ không ít. Thám tử tư, dĩ nhiên, tức là không phải công chức ăn lương của nhà nước.
Tôi cộng tác với một anh bạn rất thân. Tên thật của anh ta là Chính. Nhưng các bạn quen biết Chính lại cứ gọi là Trí, vì lý do gì tôi sẽ nói sau. Hai đứa tôi đã thành lập hãng thám tử tư đặt danh xưng là "Sê tê hai"! "Sê tê hai"? Chắc anh em nghe thấy lạ tai lắm ? "Sê tê hai" là cái quái gì ? Bình tĩnh suy nghĩ một chút thì thấy cũng chẳng có gì đáng gọi là ly kỳ lắm. Này nhé: "Sê" là C tức Chiêm, và "Tê" là T tức Trí, "hai" là con số 2 hay là hai người cũng vậy. Tóm lại "Sê tê hai" chỉ có nghĩa là Chiêm Trí hai người thành phần cốt cán của hãng thám tử tư "Sê tê hai" hay viết cho nó đẹp mắt và có vẻ khoa học một tí thì là CT2. Và dĩ nhiên Giám đốc hãng phải là CT1, là Trí, còn tôi là CT3!
Tôi thân với Trí từ hồi còn bé. Tên thật của anh ấy là Chính kia, nhưng các bạn đồng học chỉ thích gọi anh là Trí, lâu ngày quen miệng, nên ai cũng gọi, Trí, Trí . Và cái lý do khiến mọi người thích gọi anh là Trí, chính là vì cái trí thông minh tuyệt vời của anh. Ngay từ hồi mới chín mười tuổi, tôi đã phục anh sát đất rồi. Đáp lại, Trí cũng quý mến tôi lắm. Chắc là do ở cái điểm cả hai đứa chúng tôi đều thích làm công việc điều tra các vụ trộm cướp giết người... nghĩa là làm thám tử. Và chúng tôi góp sức thành lập hãng CT2. Các anh em đừng tưởng là chuyện giỡn nghe! Báo chí đã đăng tải nhiều vụ điều tra thật hữu ích của hãng tôi và nhiều vụ rắc rối, cơ quan cảnh sát nhiều khi phải bó tay, mà chúng tôi đã khám phá thành công đấy. Câu chuyện sau đây là mộttrong những công tác, cách đây hơn một năm, của hãng tôi đã được báo chí đăng tải dưới mộtcái "Tít" lớn: "Nhờ hai em học sinh, một ổ đúc bạc giả tại Thủ Đức đã bị khám phá"...
Buổi sáng hôm đó, sau khi đi phân phát nhật báo về, (trong kỳ nghỉ hè, tôi vẫn lãnh báo và phân phát cho các nhà mua tháng để kiếm ít tiền tiêu vặt) tôi tạt vào sạp sinh tố của anh Ba Đốc ở Thủ Đức tự thưởng cho mình một ly mãng cầu. Nhà ở Saigon mà sao lại phải lên tận Thủ Đức để uống sinh tố lận? Nói để anh em rõ: Tờ báo Chuông Vàng nhiều độc giả lắm. Có ông ở tận Thủ Đức kìa. Gần đưa trước, xa đưa sau . Và cái ông độc giả tên Bách này bao giờ cũng là người cuối cùng nhận báo do tay tôi phân phối.
Tôi nhắc lại, khi ở nhà ông Bách ra, lúc đó khoảng 11 giờ sáng, tôi tạt vào anh Ba Đốc gọi một ly mãng cầu, loại ly lớn, để tự thưởng công lao mệt nhọc phóng xe đạp từ Saigon lên Thủ Đức. Gian hàng của anh Ba Đốc, ngoài cái xe sinh tố ra, còn bán cả đồ chạp phô nữa. Kể cũng hơi lạ! Trời lúc đó không trưa lắm mà sao hàng anh ấy coi bộ vắng khách dữ. Có mỗi mình anh ngồi sừng sững phía sau quầy thu tiền. Thoáng thấy bóng tôi, anh Ba Đốc nhảy vội xuống, đi lại mở cánh cái tủ lạnh vĩ đại, lấy một chai nước mãng cầu lạnh buốt đặt trước mặt tôi, không nói mộttiếng. Chúng tôi chỉ đưa mắt nháy nhau một cái... thông cảm: Ba Đốc thuộc từ lâu thói quen của tôi thích uống loại sinh tố này.
Tợp hai ba ngụm, ly nước mát như gột rửa hết mọi cái mệt nhọc bụi đường, cạn tới đáy. Tôi liệng một đồng "cắc" hai chục lên mặt quầy. Vẫn im lìm, anh Ba Đốc quơ lấy đồng tiền "cắc" đoạn tiến lại chỗ thùng đựng tiền. Đột nhiên anh đứng sững lại:
- Ê! Nhỏ! Lại coi này! Đồng "cắc" này sao kỳ vậy ?
Rồi anh liệng đồng tiền lên mặt quầy. Tôi xáp tới, cúi xuống ngó kỹ. Quả nhiên, không phải đồng cắc hai chục bạc Việt Nam. Đồng tiền này làm bằng bạc thứ thiệt, to xấp xỉ đồng hai chục của chúng ta, một mười một chín. Bề cạnh vòng tròn đã mòn vẹt. Một mặt có hình một cái mũ sắt, mặt kia là hình một con cú có đôi mắt to thô lố...
Tôi ngẩn người:
- Ủa! Lạ quá! Ở đâu ra vậy không biết?
- Chắc ông khách mua báo tháng nào trả lộn chú rồi!
- Chắc vậy!
Rồi tia mắt vẫn đăm đăm đồng tiền lạ, tôi thọc tay vào túi, vét ít đồng lẻ, đếm cẩn thận và xem lại cũng thật cẩn thận, trước khi trao cho anh Ba, miệng không ngớt lẩm bẩm:
- Kỳ thật! Chẳng hiểu là tiền nước nào đây và đúc từ hồi nào kìa ?
Anh Ba Đốc thản nhiên:
- Ai biết được!... À này, nhưng mà coi bộ cái đồng tiền đó có vẻ hiếm, bán ra tiền đấy nghe!
Anh cười rộ lên, đoạn tiếp:
- Nhưng lợi đâu chưa thấy, chỉ biết là chú bị toi mất hai chục bạc rồi đấy. Thôi, tùy! Tính sao thì tính, tùy em! Xếp chuyện đó lại! Uống gì thêm không ?
- Thôi, cám ơn anh Ba!
Xếp chuyện đó lại? Hừ! Đâu có dễ thế! Phải rồi, anh Ba Đốc đâu có là nhân viên của CT2. Thây kệ, để anh đi lo mấy cái vụ nước sinh tố, la de, nước ngọt và đồ chạp phô của anh cho rồi. Saumột lúc suy nghĩ kỹ, tôi tụt xuống khỏi chiếc ghế đẩu cao, chạy ra phòng điện thoại công cộng cách nhà anh chừng hai chục thước. Phòng có hai ngăn, hai máy, ra vào bằng hai cửa riêng.
Tại đây, tôi đã phạm vào điều sơ xuất đầu tiên trong ngày. Ngăn bên trái đã có một người đàn ông. Người này đứng quay lưng ra phía ngoài, đang nói chuyện, nhưng nói rất khẽ, đôi môi dán vào ống nói, ý chừng không muốn để người thứ ba nghe lọt nội dung cuộc đối thoại, trừ người đầu dây nói đằng kia. Về sau, nghĩ lại tôi mới tiếc là để lỡ dịp. Đáng lẽ lúc đó tôi phải để ý ngay, chờ ông ta quay lại, nhìn cho rõ mặt. Nhưng lòng rộn lên vì đồng tiền lạ vô tình có được trong tay, tôi đã để lỡ mất dịp may. Tiền của quốc gia nào, đúc từ bao giờ, tôi mù tịt nhưng "sếp" CT1 của tôi, chắc phải biết. Đút vào khe máy một đồng mười, tôi quay số điện thoại của Trí:
- Allo!
- Allo ?
Hại quá! Đầu dây nói vang lên giọng the thé của bà Năm Rằng, vị nữ quản gia của CT1. Tôi đã hy vọng được gặp anh, không ngờ lại vớ phải cái bà rắc rối, tò mò này. Chưa hết! Bà Năm lại còn có vẻ kỵ công việc thám tử của tôi và Trí, coi thường như trò trẻ con. Nhưng tôi vẫn phải lễ phép, niềm nở:
- Dạ thưa bà Năm, cháu đây! Chiêm đây ạ, bà Năm! Bà cho cháu nói chuyện với Trí á, á không... dạ dạ, Chính ạ!
May quá, suýt chút nữa thì nguy tai! Cháu bà tên Chính, nếu gọi trại đi là Trí thì chết với bà chứ không giỡn đâu! Bà vốn rất ghét cái lối thanh thiếu niên ngày nay cứ hay gọi chệch tên của nhau đi.
- À nói chuyện với Chính hả ? Hừ! Thằng nhỏ còn đang chúi mũi chúi tai trong cái "phòng thí nghiệm" của nó đó. Sáng sớm tinh mơ, mở mắt thức dậy là đã chui vào trong đó rồi! Chờ mộtchút đi, để tôi kêu nó cho, nghe!
Đầu máy o o... một hồi rồi là tiếng nói của "sếp" CT1:
- Allo!
- Trí hả ? Chiêm đây...! – Một tiếng "cách" khẽ vang lên. Tôi biết ngay là Trí đã hãm ống nghe để tiếng tôi nói khỏi lọt vào tai bà Năm Rằng. Các chốt hãm do tay anh chế ra và riêng chỉ có mình anh và tôi biết. Bà Năm mà khám phá ra cái đó là chúng tôi có chầu nguy...
- Cẩn thận chút nghe CT3! Áp dụng phương pháp thường lệ đi!
- Rồi! Đây, CT3 báo cáo!
- CT1 nghe! Nói se sẽ chút!
Tôi hắng giọng:
- Phi thuyền "T bình phương" đã bay vào quỹ đạo!
Dĩ nhiên đó là câu ám ngữ có nghĩa là: "Tin tức quan trọng". Tôi hí hởn đinh ninh là thế nào "sếp" cũng phải ngạc nhiên và vui mừng khi được tin mới; cụt hứng quá, Trí vẫn tỉnh như không:
- CT3 có tin gì thú vị đấy hả ? Chắc phải quan trọng lắm nên mới mất công gọi điện thoại từ nhà anh Ba Đốc ở Thủ Đức về chứ, hả ?
Người ngạc nhiên thay vì Trí, lại hóa là tôi:
- Ủa! Sao anh lại biết tôi gọi điện thoại từ đâu về? – Tiếng tôi oang oang, quên bẵng cả lời "sếp" dặn là phải cẩn thận nói se sẽ chứ!
- Phân tích sơ sơ thôi! Có gì là khó! Này nhé! Ngày nào sáng nào, CT3 chẳng đi đưa báo. Và lần đưa báo nào mà CT3 lại chẳng để tua cuối cùng mới lên Thủ Đức, đến nhà ông Bách, liệng tờ báo xong là vọt vào nhà anh Ba Đốc làm một ly mãng cầu. Nhìn đồng hồ ở tay là biết được ngay, có khó gì đâu nào ?
- Quả có thế! Dễ hiểu quá, tôi đâm ra coi thường, nên không để ý, thành ra chẳng thấy gì hết!
Miệng nói, nhưng trong lòng tôi ấm ức thầm. Nhiều lần bị thua sút Trí rồi. Lần này gặp dịp may, tôi có ý định chiếm kèo trên để trở thành thám tử trứ danh, nếu không hơn được "sếp" CT1 thì ít nhất cũng phải ngang tay chứ bộ...
Tiếng Trí ong óng ở đầu dây nói:
- Thôi, có gì nói lẹ lên CT3, tôi còn nhiều việc lắm đây!
Kệ cho Trí giục, tôi cứ đủng đỉnh, đặt đồng tiền cổ lên kệ máy điện thoại rồi đứng xả hơi. Trong phòng điện đàm chật hẹp, không khí ngột ngạt, nên phải đẩy cánh cửa hé ra cho thoáng một chút. Qua khe cánh cửa, gió lọt vào mát rợi, đồng thời nghe được tiếng người đàn ông ở máy bên xầm xì nói chuyện. Cố lắng tai hết sức, tôi cũng chẳng nghe rõ ông ta nói gì. Thành thử việc mở hé cánh cửa phòng điện thoại, ngoài một chút gió mát, lại hóa ra một điều tai hại thứ hai tôi gây ra trong ngày.
Tôi kể cho Trí nghe điều mới khám phá được. Tia mắt nhìn chăm chú vào đồng tiền lấp lánh nằm trên kệ gỗ, tôi miêu tả hết sức tỉ mỉ. Càng nói càng hứng chí vì tưởng tượng đến món tiền kếch xù đồng tiền lạ ấy có thể đem lại: Từ khi lính Mỹ và lính đồng minh đặt chân lên đất nước Việt Nam, tôi đã thấy nhiều người Việt trở nên giàu có bạc triệu, bạc tỉ nhờ nghề buôn đồ cổ, đặt biệt là tiền cổ. Có một người Tàu bán được một đồng tiền từ đời Vua Khang Hy tới giá 200 ngàn đồng. Đồng tiền đó trông kỳ quái vô cùng, nó to bằng miệng hộp thuốc lá con mèo mà ba tôi vẫn ưa hút, cái loại hộp tròn 50 điếu ấy. Ba tôi kể chuyện lại, chính mắt ông đã nhìn thấy các cô gái thuộc sắc tộc thiểu số miền Tuyên Quang (Bắc Việt) đeo lủng lẳng trước ngực loại tiền cổ, coi làmột thứ đồ trang sức rất quý, hiếm. Và các nàng đó thuộc bộ lạc người Mán, gọi là Mán tiền, vẫn sống tại khu vực núi rừng âm u giữa khoảng phân cách hai tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên (Bắc Việt).
Tiếng Trí:
- Suỵt! Suỵt! CT3 lại mất bình tĩnh rồi! Tôi đã bảo nói se sẽ chứ! Nếu không, tôi cúp máy đó nghe!
Bực quá! Trí hay có cái giọng trịch thượng ấy đối với tôi. Tôi đã định nổi sùng ăn miếng trả miếng anh mấy câu cho bõ tức, thì tiếng nói xầm xì ở ngăn điện thoại bên cạnh đột nhiên im bặt. Người đàn ông cao lớn đã thôi nói chuyện từ lúc nào. Liếc mắt lên tấm kính trước mặt, tôi thoáng thấy bóng ông ta lướt qua. Có lẽ, vô ý nói chuyện to tiếng quá, tôi đã làm phiền ông ?
Lập tức tôi hạ thấp giọng:
- Này, Trí! Trên đồng tiền bằng bạc thật này có một chi tiết hơi lạ: một đường trũng chạy từ đường viền vào đến giữa tâm vòng tròn.
- Á, à! Vậy hả! – Giọng CT1 có vẻ lắng đọng suy nghĩ. Tôi đã biết tính "sếp" : khi nào mải nghĩ về một cái gì, anh rất ghét bị quấy rộn. Và tôi im lặng chờ xem ý kiến của anh thế nào.
Đột nhiên tôi cảm thấy một cái gì là lạ: một cảm giác nhột nhạt mà các nhà thám tử thường có. Đúng vậy! Tôi cảm thấy hình như mình đang bị rình mò, theo dõi. Người ta thường gọi đó là trực giác hay giác quan thứ sáu, một thiên tính, một khả năng bẩm sinh gì đó không rõ, nhưng có điều rõ rệt là: có người đang nghe trộm cuộc nói chuyện bằng điện thoại giữa tôi và Trí. Bất giác ngước mắt lên, tôi liếc nhanh qua khe cửa hé mở: bóng người đàn ông gọi điện thoại vừa rồi đang đứng cách chỗ tôi chừng năm sáu thước, im lặng, vểnh tai nghe tôi nói chuyện. Tóc trên đầu tôi như biết cựa quậy, dựng đứng cả lên.
Rồi qua cái tranh tối tranh sáng của khe cửa khép hờ, tôi thấy rõ một con vật gì có năm chân dài nghệu khẳng khiu như một con nhện kềnh càng, lông lá bò vào. Nhưng không phải con nhện. Ngó kỹ chính là... một bàn tay người, lông lá rậm rì đen kịt. Móng ngón tay cái lại đen thẫm hơn nữa, móng tay của một ngón tay cái bị thương.
Cái bàn tay ghê gớm ấy, đột nhiên vùng lên rồi lạ xuống nhanh như cắt, chộp lấy đồng tiền cổ tôi để trên kệ.
CHƯƠNG II
Tôi thét lên một tiếng kinh hồn, tưởng như ai ở cách đó tới 500 thước cũng còn nghe rõ. Lập tức, bàn tay thụt lại và biến mất. Cái cửa đang khép hờ cũng đóng sập lại nghe cái "rầm".
Tôi nhẩy xổ lại, túm cánh cửa giựt mạnh. Không chuyển. Cánh cửa phòng điện thoại nào cũng chỉ đóng khóa từ phía trong, tôi biết rõ như thế!
Nhưng cũng hết gần một phút sau tôi mới mò được quả đấm cánh cửa. Cửa mở, tôi vọt ra, nhẩymột bước ra giữa lề. Một bóng người đàn ông to lớn chạy khuất sau góc phố. Tôi lao người đuổi theo nhưng có cái gì giữ cẳng chân cứng lại, rồi ngã sóng soài trên bờ hè. Mắt nổ đom đóm, thái dương giựt liên hồi, tuy vậy, tôi vẫn còn đủ sức lao người bò đại bằng bốn chân. Cảnh vật trước mắt mờ hẳn đi như bị bao trùm trong một tấm màn "voan" mỏng. Rồi bóng dáng anh Ba Đốc sừng sững hiện ra ngay trước mắt. Anh Ba đứng lom khom cúi xuống nhìn tôi vẻ mặt lo lắng. Anh giơ tay định đỡ tôi dậy, nhưng bỗng tôi rên lên:
- Chết rồi, anh Ba! Cẳng chân trái tôi làm sao thế này ?... Á, á... không cục cựa được nữa, hà!
Anh Ba thở một hơi dài nhẹ nhõm:
- Úi chao! Thế này thì còn cựa quậy thế quái nào được nữa! Chú thụt chân vào một chiếc thùng các tông rồi đây này!
Đã bớt hốt hoảng, tôi giương mắt ngó kỹ mới thấy rằng anh Ba nói đúng. Rút chân ra, tôi khoan khoái nhận thấy không bị một vết thương trầy trụa:
- Vì mải đuổi theo một người đàn ông, tôi chẳng trông thấy gì cả nên mới vướng chân vào đó.
Anh Ba Đốc ngạc nhiên:
- Ủa, người đàn ông nào nhỉ? Có ai đâu nào!
Tôi lờ đi không nói gì thêm. Vô ích! Dù có nói anh cũng chẳng tin. Giựt mình, tôi nhớ lại đồng tiền cổ. Chết rồi! Đồng tiền đâu mất rồi ? Không biết gã đàn ông kia đã vớ được chưa ? Để mặc anh Ba đứng ngây người, tôi chạy lao trở lại phòng điện thoại. Đến nơi, tôi thở ra một hơi dài khoan khoái: đồng tiền vẫn nằm yên chỗ cũ. Quơ tay cầm lẹ, tôi nhét ngay vào túi áo. Nhưng quái!! Có tiếng gì kêu ọ ọ từ trong máy nói đưa ra. Thì ra cái ống nghe chưa được gác lên máy bị lủng lẳng ở đầu dây. Và tiếng ọ ọ phát ra từ đấy cho biết rằng Trí vẫn đang còn ở đầu máy đằng kia. Tôi nhấc ống nghe đặt vào tai:
- Chiêm, Chiêm! Cái gì thế hả ? Đang nói chuyện, sao lại...
Giọng nói tôi làm ra vẻ quan trọng:
- Thong thả chút đi! Rồi tôi kể lại anh nghe.
Đoạn tôi thuật lại việc vừa qua cho Trí nghe, không sót một chi tiết. Khi nghe kể chuyện xong, anh ra lịnh vắn tắt:
- Về "Trụ sở" ngay lập tức nghe CT3, tôi chờ! Hà! Chuyện này không phải thường đâu nghe! Cái người đàn ông thò tay vào định lấy đồng tiền đó, cố ý giấu mặt, điểm ấy đáng nghi lắm! Chúng ta phải bắt tay vào cuộc điều tra ngay mới được. Hắn ta đã âm mưu một lần, chắc thế nào cũng quen tay làm nữa cho coi! Cẩn thận đấy, CT3!
- Được! CT1 yên trí! Tôi sẽ cẩn thận! – Giọng nói của tôi bất giác có vẻ hơi run.
Rồi quay ra lấy xe, nhẩy lên, tôi phóng một mạch về Saigon. Trí và tôi đều ở khu cổng xe lửa số 6 cả, nhưng nhà anh cách nhà tôi 4 con hẻm. Về đến nơi, thay vì tiến thẳng đến cửa nhà anh, tôi dắt xe đi vòng ra phía sau vườn, nơi nhà kho để dụng cụ làm vườn. Đó! "Trụ sở" của hãng "Sê Tê Hai" thám tử tư của chúng tôi đó. Nóc nhà kho khá cao và có nhiều xà ngang thật to. Trí và tôi đã mầy mò xin được ở hãng cưa gần đấy nhiều thanh cây, mảnh gỗ, ván ép ở các thùng đồ cậy ra rồi sau gần một tuần lễ hì hục cưa, đục, đóng... hai chúng tôi đã hoàn thành được cái trụ sở khá tươm tất. Trí hân hoan đặt cho nó cái tên là "phòng thí nghiệm". Kín đáo và bí mật lắm! Mở cửa bước vào nhà kho, tôi tiến tới cây cột thứ ba, ấn vào một cái đinh ngầm đóng sát chân cột. Trần nhà kho bằng ván ép, lật xuống một miếng vuông vức, cạnh 60 phân. Một cái thang gỗ nhỏ nhắn nhưng thật chắc, cũng do hai anh em đóng lấy, tự động tụt xuống. Tôi trèo lên hết 5 bậc, chân vừa đặt lên mặt trần nhà thì cái thang cũng tự động rút lên, kéo theo cả miếng gỗ vuông đậy kín lỗ hổng.
Trí đã ngồi sẵn tại bàn làm việc. Trên mình, anh choàng chiếc áo blouse trắng, chiếc áo anh thường mặc mỗi khi ngồi trước bàn thí nghiệm hóa học. Bên trên bàn ngổn ngang chai lọ, ống nghiệm to nhỏ đủ loại. Anh đang gầm đầu xuống một quyển sách dầy mở rộng. Tôi bước lại, anh ngẩng đầu lên:
- A! CT3! Tốt! Đâu, đồng tiền đó đâu ? Đưa mình coi!
Trí cầm lấy đồng tiền lạ tôi đưa cho. Anh đứng dậy tiến về phía một cái bục ván dầy ta vẫn thường thấy trong xưởng của thợ mộc. Anh quay lại nhìn tôi, hất đầu về phía quyển sách:
- Trong khi chờ đợi CT3, tôi đã tham khảo kỹ tài liệu về tiền cổ học. CT3 có biết gì về tiền cổ học không ? Này nhé... !
Trí có một nhược điểm khiến thiên hạ khó chịu: anh ưa thuyết trình. Gặp một vấn đề gì hơi đặc biệt một chút là anh trịnh trọng giải thích, nói thao thao bất tuyệt, rành mạch khúc chiết, lưu loát như nước chảy. Tôi khổ tâm lắm, nhưng cứ đứng im nghe:
- Đây là một đồng tiền cổ lâu đời lắm rồi của thành phố A-tê-na thuộc nước Hy Lạp, đúc từ hồi thế kỷ thứ 5 trước Thiên Chúa giáng sinh. Cái mũ sắt tượng trưng Nữ Thần Athéna, và ở mặt kia, hình con cú hai mắt thô lố là phù hiệu đặt biệt của người.
- Thế còn vết vạch lõm từ mép đường vòng vào tới tâm ?
Trí mỉm một nụ cười tươi.
- Đó là dấu vết trục trặc kỹ thuật. Nhiều khi máy đúc dập xuống sai lệch một chút. Nhưng theo tôi, chuyện trục trặc đó ít khi xảy ra. Vậy thì chắc chắn đây là vết khía của một tay lái buôn nào nghi ngờ sự thật giả, đã làm ra để xem xét cho tường hư thực đó.
- Rồi! Thế tất cả vấn đề có ăn nhằm gì đến người đàn ông móng tay cái đen kia đâu mà y lại có ý định nẫng đi, để làm gì vậy ?
- Thắc mắc của CT3 rất chính đáng! Nhất định là còn phải có nhiều "cái gì" lắm chứ! Tôi cần phải xem xét lại nhiều nữa, cho thật kỹ rồi mới biết được!
Đoạn Trí đặt đồng tiền lên mặt gương phẳng, dưới ống kính hiển vi, săm soi, nhìn ngó. Bên cạnh bàn, tôi lặng lẽ đứng im.
Đột nhiên anh thẳng đứng người lên: CT1 đã khám phá được điều gì khác lạ. Tôi biết chắc như thế. Ở gần Trí lâu nên tôi thuộc gần hết mọi thói quen của anh. Anh gần như la lên:
- Chiêm, Chiêm! Lại coi, lại coi! Mau lên!... Thấy gì lạ không ?
Tôi xáp lại, dán mắt dòm qua ống kính hiển vi; tới gần một phút sau mới ngập ngừng đáp:
- Có... có! Cạnh tròn của đồng tiền có vết bầm!
- Đúng! Và những vết bầm đó ra sao ? Có gì lạ ?
- Những vết bầm đó... a... ơ... ơ... đều xiên về một chiều!
- Rồi!... Thế còn cái vết khía từ mép đồng tiền chạy vào đến tâm ? Vết khía ấy cũng có vết bầm chứ ?
Tôi đáp ngay:
- Không, vết khía đó trơn lu, không có vết bầm dập gì hết!
- Khá lắm, Chiêm! Vậy là đủ rồi! Hà! Hà! Thú lắm!
Lúc tôi rời khỏi ống kính thì Trí lượm đồng tiền lên. Rồi trước đôi mắt mở tròn vì kinh ngạc của tôi, Trí đưa đồng bạc sát miệng và... thè lưỡi liếm liếm. Tôi bật ra tiếng... gần như quát lên:
- Cái gì kỳ vậy, Trí ?
Đôi chân mày hơi nhíu, vẻ mặt đăm chiêu, giọng bạn tôi trầm hẳn xuống, nghiêm nghị:
- Chiêm! Đồng tiền này giả!
- Cái gì ?
- Nghe rõ rồi còn hỏi nữa! Những vết bầm ở cạnh đều do giấy nhám tạo ra: kẻ nào đó đã chủ tâm cạ cạ mép đồng tiền bằng giấy nhám để cho nó có cái vẻ cũ kỹ, cổ xưa giả tạo. Còn cái vết khía dài kia cũng tân tạo nốt để người khác tưởng lầm là vết tích của sự trục trặc trong khi đúc tiền!... Chưa, chưa hết! Như Chiêm đã thấy đó, mình liếm liếm bằng lưỡi để nếm thử mùi vị... ốc xít! Chiêm biết ốc xít không ? Ốc xít là kết quả phản ứng hóa học do các chất muối trong không khí tác dụng lên kim loại. Nếu thực sự là một đồng tiền cổ, chất ốc xít sẽ không còn vị gì nữa! Đằng này đồng tiền của Chiêm lại có một vị đắng rất rõ rệt...
- Nhưng mấy cái đó có ăn chung gì đâu nhỉ!... Và vậy ra đồng tiền này không có giá trị gì hết!
- Đúng như vậy!
- Ủa! Nếu thế thì cái người có móng tay cái đen kia định đoạt lấy... định nẫng trộm để làm gì vậy ?
"Sếp" tôi trịnh trọng:
- Đó là một điều chúng ta phải điều tra tìm hiểu, CT3! Mà muốn điều tra đặng tìm hiểu, chỉ có mộtcách: Lột mặt nạ cái con người bí mật đó!
_______________________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG III - IV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét